Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lưu Đức Hải nguyên là thành viên của Tiểu ban Huấn luyện của Liên đoàn từ năm 1980. Ông cũng là đấu thủ lưỡng kỳ (cờ Tướng và cờ Vua), vô địch cờ Tướng Hà Nội 1975, vô địch cờ Vua Hà Nội 1980, 1981, vô địch cờ Vua quốc gia đầu tiên 1980.
Nhân dịp Xuân Giáp Ngọ, PGS.TS Lưu Đức Hải đã gửi đến bạn đọc Vietnamchess như một món quà đầu Xuân, một bài viết về sự khác nhau giữa cờ Tướng Việt Nam và cờ Tượng Trung Hoa.
SỰ KHÁC BIỆT GIỮA CỜ TƯỚNG VIỆT NAM VÀ TƯỢNG KỲ TRUNG HOA
Trong số các quốc gia có môn cờ Tướng phát triển thì Việt Nam và Trung Hoa là 2 quốc gia nằm trong số đó, với thời gian khoảng trên 1.300 năm, bởi cờ Tướng hình thành ở 2 nước từ thế kỷ 7-8.
Mặc dù có tới trên 1000 năm Bắc thuộc (từ năm 179TCN-939), cờ Tướng ở Việt Nam và Trung Hoa đã hình thành và phát triển ở thế kỷ 7-8 (trong thời kỳ Bắc thuộc bởi phong kiến phương Bắc xâm chiếm Việt Nam) song vẫn có những sự khác biệt giữa cờ Tướng ở Việt Nam và Tượng kỳ ở Trung Hoa, nhất là ở thời kỳ độc lập tự chủ hoàn toàn của Việt Nam, kể từ khi Ngô Quyền xưng vương vào năm 939.
1. Sự khác nhau về tên gọi của môn cờ
Từ cổ xưa cho đến tận bây giờ người Việt Nam vẫn dùng thuật ngữ "Cờ Tướng" để chỉ môn cờ mà ở đó có 32 quân (mỗi bên gồm 16 quân viết bằng chữ Hán với 1 Tướng, 2 Sĩ, 2 Tượng, 2 Xe, 2 Pháo, 2 Mã và 5 Tốt), được bày trên một bàn cờ với 10 đường kẻ ngang và 9 đường kẻ dọc, có cửu cung ở giữa và có dòng sông (được gọi là hà) ngăn đôi ở giữa bàn cờ. Người Việt Nam gọi tên môn cờ này theo tên gọi của quân Tướng là quân quan trọng nhất trên bàn cờ, đó là "Cờ Tướng" (General Chess).
Cũng môn cờ đó ở Trung Hoa từ xa xưa người ta gọi môn cờ này là "Tượng kỳ" theo nghĩa chữ Hán là cờ hình tượng (không phải vì có quân Tượng trên bàn cờ). Cách gọi này ở Trung Hoa có từ thời trò chơi Chaturanga mới du nhập vào Trung Hoa, khi đó các quân cờ có hình tượng và có độ cao như cờ Vua ngày nay (Hình 1). Sau này khi chuyển đổi thành quân cờ tròn và dẹt, có chữ Hán viết ở trên, người Trung Hoa vẫn giữ nguyên tên gọi là "Tượng kỳ" (Xiangqi).
Đó là sự khác nhau thứ nhất về tên gọi của môn cờ.
Hình 1: Bộ quân Tượng kỳ thời kỳ quân cờ có hình tượng (Ảnh: Tác giả, 2013).
2. Sự khác nhau về tên gọi của các quân cờ
Từ xa xưa ở Việt Nam có 2 loại trò chơi mà quân của chúng gần giống hệt nhau, đó là "Cờ Tướng" và trò chơi bài lá có tên gọi là "Tam cúc".
Trong bộ bài Tam cúc có 32 quân, gồm 16 quân đỏ và 16 quân đen. Mỗi bên có 1 Tướng, 2 Sĩ, 2 Tượng, 2 Xe, 2 Pháo, 2 Mã và 5 Tốt. Chữ Hán dùng để thể hiện 7 loại quân này giống hệt nhau ở cả 2 bên và chỉ khác nhau về mầu sắc (đỏ và đen)
Hình 2: Bộ bài "Tam cúc" ở Việt Nam có 7 loại quân được viết chữ Hán giống hệt nhau cho cả 2 bên
(Tướng, Sĩ, Tượng, Xe, Pháo, Mã, Tốt) đỏ và đen (Ảnh: Tác giả, 2013).
Từ cổ chí kim 7 loại quân cờ trên bàn cờ Tướng Việt Nam vẫn thống nhất với tên của 7 loại lá bài trong bộ Tam cúc Việt Nam là: Tướng, Sĩ, Tượng, Xe, Pháo, Mã, Tốt và cách viết chữ Hán cổ (Tiếng Việt cổ của người Việt Nam bao gồm 3 loại chữ: Hán, Nôm và chữ quốc ngữ) trên 7 loại quân cờ Tướng và trên bộ bài lá Tam cúc là thống nhất hoàn toàn cho cả 2 bên và chỉ phân biệt bằng màu (đỏ và đen, trắng và đen, đỏ và xanh...): Đó là bộ quân cờ Tướng của Việt Nam (Hình 3 và Hình 4).
Hình 3: 7 loại quân cờ Tướng trong bộ cờ Tướng của Việt Nam là Tướng, Sĩ, Tượng, Xe, Pháo, Mã, Tốt
có chữ Hán viết giống hệt nhau cho cả 2 bên và chỉ khác nhau bằng màu sắc (Ảnh: Tác giả, 2013).
Hình 4: Bàn cờ treo trong Giải cờ Tướng chợ phiên Hà Nội 1953, với chữ Hán viết trên 7 loại quân cờ ở hai bên giống hệt nhau,
chỉ khác nhau về màu sắc (Ảnh: Tác giả sưu tầm từ Trịnh Đình Tạo).
Trong bàn cờ cổ Chaturanga và trong bàn cờ Vua hiện đại, 6 loại quân (Vua, Hoàng Hậu, Xe, Tượng, Mã, Tốt) của 2 bên là giống hệt nhau và chỉ khác nhau về màu sắc (trắng và đen). Đó là cách làm khoa học và công bằng nhất.
Về tên gọi của quân cờ trong cách ghi biên bản ván cờ Tướng bằng tiếng Việt hiện nay và trước đây, ghi ký hiệu viết tắt thống nhất cho cả 2 bên, được quy ước như sau:
Tướng = Tg | Sĩ = S | Xe = X | Mã = M | Tượng = T | Pháo = P | Tốt = B |
Trong tiếng Việt có 3 quân cờ mà chữ viết tắt bị trùng nhau, đó là Tướng, Tượng và Tốt. Vì thế Luật cờ Tướng của Việt Nam đã quy định Tướng viết tắt là Tg.
Có một thời (ở nửa sau của thế kỷ 20) chúng ta đã quy định Tượng viết tắt là V (tức Voi) và Tốt viết tắt là T. Cách quy định này tránh được sự trùng lặp và lại giữ được sự trong sáng của tiếng Việt. Song từ năm 1999, sau khi có Luật cờ Tướng sửa đổi cách ghi biên bản với quân Tượng là T và với quân Tốt là B (tức Binh, âm Hán cũng có nghĩa là người lính, tức Tốt). Ghi theo cách này chúng ta đã vay mượn chữ Hán (tức Trung Hoa hóa) cả 2 từ Tượng và Binh để chỉ tên gọi của quân cờ.
Trong khi đó quân "Tượng kỳ" (cờ Tượng) của Trung Hoa lại có sự khác nhau trong cả cách viết chữ Hán lẫn mầu sắc của 7 loại quân cờ của 2 bên. Từ nhiều thế kỷ qua đến tận bây giờ ở Trung Hoa tồn tại 2 loại bộ quân Tượng kỳ có cách viết chữ Hán khác nhau.
Loại thứ nhất, một bên có 7 loại quân là Tướng, Sĩ, Tượng, Xe, Pháo, Mã, Binh (Hình 5, nhóm 7 quân bên dưới), còn bên kia có 7 loại quân là Soái, Sĩ, Tương, Xe, Pháo, Mã, Tốt (Hình 5, nhóm 7 quân bên trên).
Hình 5: Sự khác nhau của 7 loại quân cờ ở 2 bên của bộ Tượng kỳ đang được lưu hành ở vùng nói tiếng Quảng Đông
(phía Đông Nam Trung Hoa, Hồng Kông, Ma Cao) (Ảnh: Tác giả, 2013).
Như vậy cả 7 loại quân cờ của 2 bên khác nhau hoàn toàn về chữ viết. Loại quân Tượng kỳ này thường được lưu hành ở vùng nói tiếng Quảng Đông, chủ yếu là ở vùng Đông Nam Trung Hoa xưa, Hồng Kông, Ma Cao… Hiện nay một số người Hoa sinh sống ở Việt Nam, có nguồn gốc, quê hương xa xưa từ Quảng Đông, Phúc Kiến thường hay sử dụng loại quân Tượng kỳ này.
Loại thứ hai, một bên có 7 quân là Tướng, Sĩ, Tượng, Xe, Pháo, Mã, Tốt (Hình 6, 7 quân bên trên), còn bên kia có 7 loại quân là Soái, Sĩ, Tương, Xe, Pháo, Mã, Binh (Hình 6, 7 quân bên dưới). Như vậy 2 bên có 3 loại quân Xe, Pháo, Mã viết chữ Hán giống hệt nhau, song 4 loại quân còn lại có chữ Hán viết khác nhau. Loại quân Tượng kỳ này thường được lưu hành ở khu vực nói tiếng phổ thông Trung Hoa (miền Bắc, Trung và Tây Nam Trung Hoa, là khu vực đa dạng ngôn ngữ được biết đến dưới tên chung là tiếng Quan Thoại; Đài Loan; Đây cũng là 1 trong 4 ngôn ngữ chính thức tại Singapore).
Hình 6: Sự khác nhau của 7 loại quân cờ ở 2 bên của bộ Tượng kỳ đang được lưu hành ở vùng nói tiếng phổ thông Trung Hoa
(phía Bắc, Trung, Tây Nam Trung Hoa, Đài Loan) (Ảnh: Tác giả, 2013).
Như vậy khi thi đấu cờ Tướng ở Việt Nam mà lại dùng quân của 1 trong 2 loại bộ Tượng kỳ Trung Hoa thì thật là khập khiễng, nhất là khi ghi biên bản ván cờ, chữ viết tắt của 2 bên như nhau (Tướng: Tg, Sĩ: S, Tượng: T, Xe: X, Pháo: P, Mã: M, Tốt: B), trong khi tên quân cờ chữ Hán lại khác nhau, nghĩa dịch sang tiếng Việt cũng khác nhau thì quả là điều bất cập!
Vậy là ở Việt Nam chỉ có 1 loại bộ quân cờ Tướng truyền thống, với 7 loại quân Tướng, Sĩ, Tượng, Xe, Pháo (bộ thạch), Mã, Tốt được viết bằng chữ Hán, giống nhau cho cả 2 bên, song chỉ khác nhau về màu sắc. Còn ở Trung Hoa có 2 loại bộ quân Tượng kỳ, với 7 loại quân cờ được viết bằng chữ Hán khác nhau cho cả 2 bên, đồng thời cũng khác nhau về mầu sắc. Một loại bộ quân Tượng kỳ thường dùng ở vùng nói tiếng Quảng Đông, loại bộ quân Tượng kỳ còn lại thường dùng ở vùng nói tiếng phổ thông Trung Hoa.
Đó là sự khác nhau thứ 2, giữa bộ quân cờ Tướng Việt Nam và bộ quân Tượng kỳ Trung Hoa.
3. Sự khác nhau về cách ghi biên bản ván cờ
Từ năm 1954 trở về trước, cách ghi biên bản ván cờ Tướng của Việt Nam khác hẳn với cách ghi biên bản ván cờ ngày nay. Trên bàn cờ Tướng Việt Nam xưa, 9 cột dọc được ký hiệu bằng chữ in hoa, thứ tự từ trái qua phải là: A, B, C, D, Đ, E, G, H, I; Còn 10 hàng ngang được ký hiệu bằng số, thứ tự từ dưới (bên đi trước) lên (bên đi sau) là: 10, 9, 8, 7, 6, 5, 4, 3, 2, 1 (xem hình 4 bên trên).
Hình 4 là ảnh chụp ván cờ của trận chung kết Giải vô địch cờ Tướng chợ phiên Hà Nội 1953, thi đấu tại khu vực Võ sĩ đoàn, đối diện với nhà hàng Thủy Tạ bên bờ hồ Hoàn Kiếm, giữa danh thủ Nguyễn Tấn Thọ (Hà Nội, bên đi trước) và danh thủ Đặng Đình Yến (Hà Nội, bên đi sau, người đã thắng ván cờ này và đoạt giải quán quân 1953). Sau 4 nước đi đầu tiên biên bản ván cờ được ghi (theo 3 cách để có sự so sánh: trước 1955, trước 1999 và từ 1999 đến nay) như sau:
Bên đi trước: Nguyễn Tấn Thọ (Hà Nội), Bên đi sau: Đặng Đình Yến (Hà Nội)
Cách ghi biên bản trước năm 1955 |
Cách ghi biên bản trước năm 1999 |
Cách ghi biên bản từ năm 1999 đến nay |
1. Mg8 (Mã g8) ... Mc3 (Mã c3) 2. Tg6 (Tốt g6) ... Tc5 (Tốt c5) 3. Xi9 (Xe i9) ... Mg3 (Mã g3) 4. Xd9 (Xe d9) |
1. M2+3 (Mã 2 tiến 3) ... M2+3 (Mã 2 tiến 3) 2. T3+1 (Tốt 3 tiến 1) ... T3+1 (Tốt 3 tiến 1) 3. X1+1 (Xe 1 tiến 1) … M8+7 (Mã 8 tiến 7) 4. X1.6 (Xe 1 bình 6) |
1. M2.3 (Mã 2 tiến 3) … M2.3 (Mã 2 tiến 3) 2. B3.1 (Tốt 3 tiến 1) … B3.1 (Tốt 3 tiến 1) 3. X1.1 (Xe 1 tiến 1) … M8.7 (Mã 8 tiến 7) 4. X1-6 ( Xe 1 bình 6) |
Qua cách ghi biên bản ván cờ của 3 thời kỳ khác nhau ta thấy rằng cách ghi biên bản ván cờ Tướng truyền thống của Việt Nam trước năm 1955 là hết sức khoa học: ghi theo tọa độ của điểm mà quân cờ sẽ đi đến mà không cần có thêm các ký hiệu tiến, thoái, bình nữa. Cách ghi biên bản này gần giống với cách ghi biên bản cờ Vua ngày nay.
Trong khi đó cách ghi biên bản ván Tượng kỳ của Trung Hoa gần giống cách ghi biên bản của Việt Nam từ sau năm 1999. Đó là sự khác nhau thứ 3 về cách ghi biên bản ván cờ giữa cờ Tướng truyền thống của Việt Nam và Tượng kỳ Trung Hoa.
4. Sự khác nhau về tính phù hợp của 4 binh chủng hợp thành
Môn chơi thời cổ Chaturanga ở Ấn Độ có nghĩa là 4 binh chủng quân đội thời đó hợp thành: chiến xa, tượng binh, kỵ binh và bộ binh, trong đó 3 loại binh chủng chiến xa, kỵ binh và bộ binh thì rất phổ biến và hầu như quốc gia nào cũng có. Chỉ có tượng binh là binh chủng rất đặc biệt bởi đầu tiên nước đó phải có nhiều voi và sau đó voi phải được huấn luyện để tham gia chiến đấu.
Voi chiến (tượng binh) là voi được huấn luyện dưới sự chỉ huy của con người để giao chiến. Mục đích chính là tấn công đối phương, dày xéo và phá vỡ hàng ngũ của quân địch. Chúng được sử dụng đầu tiên ở Ấn Độ, sau phép dùng voi chiến lan sang vùng Đông Nam Á và Trung Đông tới tận Địa Trung Hải. Theo sử cũ Hy Lạp cổ đại, quân Ấn Độ đã dùng tượng binh chống trả khi Nữ hoàng Semiramis của Đế quốc Assyria mở cuộc hành chinh đánh sang Ấn Độ. Cyrus Đại Đế của Đế quốc Ba Tư (năm 530 TCN) và Alexandros Đại Đế của Vương quốc Macedonia (năm 326 TCN) cũng gặp phải đoàn tượng binh của Ấn Độ. Thời kỳ cổ đại, văn minh Ấn Độ đề cao giá trị của loài voi trong chiến tranh. Họ ví rằng "Quân đội mà không có tượng binh thật đáng coi thường, khác gì rừng không có sư tử, nước không có vua, hay lòng can đảm mà đánh bằng tay không” (Wikipedia, 2013). Voi chiến còn phát triển mạnh ở Myanmar, Thái Lan...
Tại Việt Nam, kỹ thuật sử dụng voi chiến đã có từ khá sớm. Các tài liệu Việt Nam và Trung Quốc từng ghi nhận trong cuộc khởi nghĩa ở Mê Linh của Hai Bà Trưng năm 40 (thế kỷ 1 sau Công nguyên) đã sử dụng lực lượng voi chiến đánh lại quân nhà Đông Hán. Rất nhiều hình ảnh ghi nhận Hai Bà chỉ huy trên mình voi (Hình 7). Một hình ảnh tương tự ghi nhận rằng Bà Triệu năm 248 cũng sử dụng voi chiến trong cuộc khởi nghĩa chống quân Ngô (thời Tam Quốc).
Hình 7: Năm 40, Hai Bà Trưng (Việt Nam) đánh đuổi Tô Định (Đông Hán, Trung Hoa)
(Nguồn: Tranh dân gian Đông Hồ, Bắc Ninh).
Trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam, voi chiến được xem là một lực lượng đặc biệt sử dụng trong chiến trận. Do thế phòng thủ trước các triều đại phương Bắc, vốn không có tượng binh, thì ưu thế của phía Việt Nam về lực lượng tượng binh là rõ rệt, chẳng hạn như việc sử dụng tượng binh trong chiến dịch nghĩa quân Lam Sơn ra Bắc hay quân Tây Sơn công phá thành Ngọc Hồi vào ngày mùng 5 tết Kỷ Dậu, 30/1/1789. Sự phát triển vượt bậc chính là sự kiện vua Quang Trung đã đặt pháo trên lưng voi trong chiến dịch đánh thành Ngọc Hồi làm quân Mãn Thanh phải khiếp sợ. Thực tế là các lực lượng quân sự Việt Nam đã huấn luyện và sử dụng lực lượng voi chiến trong cả nghìn năm lịch sử.
Khi hình thái chiến tranh hiện đại bắt đầu, voi chiến trở nên lỗi thời trước sức mạnh của đại bác, nhà Nguyễn vẫn tiếp tục huấn luyện lực lượng voi chiến trong đội tượng binh của quân đội nhà Nguyễn. Các cuộc tử chiến giữa voi và hổ nhằm tế thần trong ngày hội và phục vụ nhu cầu giải trí tiêu khiển cho vua, quan lại và người dân vẫn được tổ chức tại Hổ Quyền (kinh thành Huế). Trận đấu voi - hổ cuối cùng được ghi nhận vào năm 1904, dưới triều vua Thành Thái (Hình 8 và 9).
Hình 8: Nghi vệ voi chầu của triều đình Huế (Ảnh: Wikipedia, 2013).
Hình 9: Voi được đưa ra sân đấu tại Hổ quyền ở kinh thành Huế (Ảnh: Wikipedia, 2013).
Ở Trung Hoa, việc sử dụng những con voi chiến tương đối hiếm so với các nơi khác. Những ghi chép sớm nhất về việc sử dụng voi của họ diễn ra vào cuối năm 554 khi nhà Tây Ngụy triển khai hai con voi chiến mặc giáp sắt từ Lĩnh Nam trong trận chiến, điểu khiển bởi những nô lệ Mã Lai, và được trang bị tháp bằng gỗ và những thanh gươm gắn chặt vào cái vòi của chúng. Các con voi đã phải quay đầu bỏ chạy bởi các mũi tên của cung thủ.
Điều đó cho thấy tại sao khi Chaturanga vào Việt Nam được chuyển đổi thành cờ Tướng dễ được người Việt Nam chấp nhận và phổ biến nhanh chóng không chỉ ở tầng lớp trên mà cả trong quân đội và nhân dân ở tất cả các lễ hội trong mọi vùng đất nước, bởi hình ảnh quân Tượng có liên quan mật thiết đến tượng binh (voi chiến) trong lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta. Vì thế trong tiếng Việt người Việt Nam chưa bao giờ gọi quân Tượng là quân Tương (bộ Tượng kỳ của Trung Hoa có quân Tương, 相) và trong bộ cờ Tướng truyền thống của người Việt Nam chỉ có duy nhất một chữ Hán cổ của người Việt gọi là chữ Tượng (象, tức voi). Trong số các quốc gia có môn cờ Tướng phát triển thì Việt Nam và Trung Hoa là 2 quốc gia nằm trong số đó, với thời gian khoảng trên 1.300 năm, bởi cờ Tướng hình thành ở 2 nước từ thế kỷ 7-8.
Mặc dù có tới trên 1000 năm Bắc thuộc (từ năm 179TCN-939), cờ Tướng ở Việt Nam và Tượng kỳ ở Trung Hoa đã hình thành và phát triển ở thế kỷ 7-8 (trong thời kỳ Bắc thuộc bởi phong kiến phương Bắc xâm chiếm Việt Nam) song vẫn có những sự khác biệt giữa cờ Tướng ở Việt Nam và Tượng kỳ ở Trung Hoa, nhất là ở thời kỳ độc lập tự chủ hoàn toàn của Việt Nam, kể từ khi Ngô Quyền xưng vương vào năm 939.
Với ý nghĩa đó tác giả đề xuất đưa cờ Tướng và cờ Vua Việt Nam bổ sung vào bản đồ Cờ Thế giới với tên đầy đủ tiếng Việt và tiếng Anh để làng cờ thế giới hiểu rõ hơn về bản sắc văn hóa - lịch sử của cờ Tướng nước ta (Hình 10).
Hình 10: Bản đồ phân bố các môn cờ trên thế giới
(Ảnh: Google, 2013 và tác giả bổ sung phần Việt Nam, 2013).
Vì sự trong sáng của Tiếng Việt và vì sự giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của Việt Nam trong môn cờ Tướng, mong rằng ngành Thể dục thể thao và Liên đoàn Cờ Việt Nam sớm có những điều chỉnh thích hợp với các bộ quân cờ đang được sử dụng thi đấu và cách ghi biên bản ván cờ bằng tiếng Việt trong các giải đấu phong trào và đỉnh cao ở Việt Nam./.
PGS.TS Lưu Đức Hải