Giả thuyết lịch sử
Hiện nay có 2 giả thuyết chính về nguồn gốc cờ tướng :
1. Cờ tướng do cờ Lục bác phát triển mà thành. Cờ Lục bác du nhập vào Ấn độ, phát triển thành Saturanga. Saturanga sao đó lại du nhập ngược vào Trung quốc, kết hợp với cờ tướng đang có để trở thành cờ tướng ngày nay.
2. Cờ tướng là do Saturanga, một phát minh của người Ấn độ, du nhập vào Trung quốc phát triển mà thành, không liên quan gì đến cờ Lục bác.
Giả thuyết 1 được sự ủng hộ chủ yếu là từ các trang web của Trung quốc trong đó có wikipedia (tiếng Trung).Theo giả thuyết này thì cờ tướng đã có ở Trung quốc rất lâu trước khi người Ấn có Saturanga. Trong các tác phẩm từ thời Chiến quốc như “ Thuyết Uyển” và “Chiêu hồn-Sở từ” đã có nhắc đến cờ tướng (mà người Trung quốc vẫn gọi là Tượng kỳ). Giả thuyết 2 được các học giả phương Tây và cả trang wikipedia (tiếng Việt) ủng hộ. Để làm rõ giả thuyết nào đáng tin hơn, hãy xem cách đi cờ Saturanga :
-Tốt : mỗi lần di chuyển chỉ tấn 1 ô về phía trước, đi thẳng nhưng ăn chéo như cờ vua. Chỉ luôn luôn tấn 1 ô, không bao giờ nhảy 2 ô, vì vậy không có việc ăn tốt qua đường, cũng không có chuyện phong cấp.
- Vua, Xe và Mã có cách di chuyển hoàn toàn giống như cờ vua (mã không bị cản)
- Sĩ : Mỗi lần có 4 vị trí để di chuyển , đi tới ô chéo góc liền kề (giống như cờ tướng)
- Tượng : Đi giống như sĩ nhưng dài gấp đôi (giống như cờ tướng nhưng không bị cản)
Cũng xin lưu ý rằng vị trí ban đầu của các quân cờ không hoàn toàn giống như cờ vua vì 2 quân Vua đặt chéo nhau, không cùng 1 cột.
Rõ ràng cờ Saturanga có một số điểm giống cờ vua và một số điểm giống cờ tướng. Điều này cũng dễ hiểu vì chính bàn cờ Saturanga khi du nhập sang phương Tây thì trở thành cờ vua, còn du nhập vào Trung quốc thì trở thành cờ tướng.
Những cải tiến của người Trung quốc.
Cải tiến đầu tiên và cũng quan trọng nhất là vị trí đặt quân cờ : đặt ở giao điểm các đường chứ không đặt trên ô, quân di chuyển trên đường chứ không nhảy từ ô này sang ô khác. Chỉ với động tác này, bàn cờ tăng thêm số điểm đặt quân từ 64 của Saturanga lên 81, số quân ở hàng cuối từ 8 tăng lên 9. Vua giờ đây đã có thể ở ngay trục giữa và rất dễ dàng nhận thấy quân thêm vào bên phải vua chỉ có thể là 1 con sĩ, có vậy mới đảm bảo sự cân đối của bàn cờ.
Sau đó là phải vẽ đường cho quân Sĩ, chữ X trước mặt Vua được thêm vào và thế là ta có cửu cung.
Cờ tướng cổ đại không có quân Pháo. Các nhà nghiên cứu đều thống nhất là quân Pháo được bổ sung từ cuối thời nhà Đường (618-907), là quân cờ ra đời muộn nhất trong bàn cờ tướng. Nhiều người cho rằng quân Pháo xuất hiện muộn là do ngày xưa không có pháo binh. Sự thật hoàn toàn không phải vậy. Pháo binh xuất hiện rất sớm trong chiến tranh thời xưa. Vấn đề là muốn đưa Pháo vào bàn cờ thì bàn cờ đó phải đủ rộng . Bàn cờ 64 ô nếu muốn thêm quân Pháo thì cũng không biết phải đặt ở đâu khi quân 2 bên đông nghẹt như lô cốt thời nay! Bàn cờ tướng có chỗ đặt quân Pháo là nhờ số điểm đặt quân nhiều hơn (81 so 64). Xin nói thêm là bàn cờ Saturanga khi du nhập vào Thái Lan đã phát triển thành makruk, sang Nhật phát triển thành shogi. Hai loại cờ này đều không có quân Pháo chỉ vì đặt quân trên ô. Chỉ có bàn cờ janggi của Hàn quốc là có quân Pháo vì loại cờ này xuất thân từ cờ tướng sau khi cải tiến của Trung quốc, cũng đặt quân trên đường.
Người Trung quốc khi ấy phải mất nhiều thời gian loay hoay tìm vị trí cho quân Pháo này và cuối cùng cũng tìm được vị trí lý tưởng cho quân Pháo như chúng ta thấy trên bàn cờ ngày nay. Tuy nhiên, để có vị trí này thì hàng chốt phải đẩy rất xa lên phía trước. Kết quả là không đấu thủ nào dám tấn chốt vì chỉ cần tiến lên 1 bước thì sẽ bị chốt đối phương ăn mất ! Thế là Sở hà Hán giới ra đời, tạo thêm không gian ngăn cách 2 bên. Khi "hà" xuất hiện trên bàn cờ, 9 điểm đặt quân nữa được tăng thêm. Như vậy, bàn cờ tướng bây giờ đã có 90 điểm so với 64, đó là một sự mở rộng đáng kể. Diện tích chung của bàn cờ hầu như không tăng mấy (chỉ tăng thêm 8 ô) nhưng số điểm tăng thêm được 1 phần 3.
Quân cờ trong cờ tướng cũng được cách tân.Theo các tài liệu lịch sử, cờ tướng ở thời Đường được gọi là Tượng hý (du hý - trò chơi) có đặc điểm là quân cờ lập thể, bàn cờ có 64 ô vuông xen kẽ hai màu trắng đen, giống hệt bàn cờ vua hiện nay. Loại bàn cờ này đã được để lại trên các bức tranh dệt "Cầm, Kỳ, Thi, Hoạ" cũng như trên các vật dụng bằng sứ thời Đường.Thế nhưng sang thời Tống (960-1279) thì quân cờ trở nên dẹt và phẳng, trên có ghi chữ như quân cờ tướng ngày nay. Phải chăng đây là sự “cải lùi” ? Yếu tố kinh tế là một giả thuyết tuy dễ thuyết phục nhiều người nhưng chấp nhận giả thuyết này khác nào cho rằng người dân thời Tống nghèo hơn (hay tiết kiệm hơn) người dân thời Đường? Sự thật chẳng qua là khi người ta chấp nhận thay đổi vị trí đặt quân thì cũng dễ dàng chấp nhận những thay đổi khác như hình dạng quân cờ. Còn một lý do khác có thể thấy khi hình dung bàn cờ vua ngày nay: Nếu quân cờ đặt trên ô thì quân cờ không thể che hết ô, nhưng nếu đặt trên đường thì quân cờ có thể che hết đường, nghĩa là sẽ khó quan sát hơn.
Không còn nghi ngờ gì nữa, chính Saturanga là tiền thân của cờ tướng và cả cờ vua ngày nay. Bàn cờ tướng ngày nay là sự phát triển từ Saturanga, không liên quan đến 1 loại cờ nào khác. Khi người dân Trung quốc tiếp xúc với bàn cờ Saturanga, họ đã nhận ra sự ưu việt của loại cờ này so với cờ tướng hiện có lúc đó. Kết quả là hàng ngoại lấn lướt hàng nội, chiếm hết “thị phần”, thậm chí chiếm luôn cả “ thương hiệu”. Chuyện này không phải chỉ có ở bộ môn cờ. Bàn cờ tướng đã có ở Trung quốc từ trước khi Saturanga du nhập đã bị thất truyền, không còn ai chơi nữa .Tóm lại, giả thuyết 2 đáng tin cậy hơn.
Hóa ra bàn cờ tướng mà chúng ta vẫn chơi ngày nay là sản phẩm trí tuệ của hàng vạn người, thuộc nhiều thế hệ, nhiều dân tộc và phải mất hàng ngàn năm mới định hình !